watch sexy videos at nza-vids!
logo wap yoona.sex sex sex

Thế giới giải trí trên Mobile!
Hot

Loa dung 100
TÌM NHẠC MP3
hot Có Gì HOT?
Bỏng mắt Bikini Bỏng mắt với Bikini bốc lửa
Lượt tải: 522468
Tải về

7 n­gười con bất hiếu tán tận lương tâm

Chủ đề được kiểm duyệt bởi: admin™

Đánh giá bài viết

[HS] [On]
Cấp bậc:
rối lắm. Gần nhưng quá xa

Vợ chồng già bị 7 đứa con đẩy ra ăn
Tết ngoài đường cùng cỗ quan tài
Sinh hạ được 7 người con, chịu bao
đắng cay để nuôi nấng chúng nên
người. Vậy mà, giờ đây chúng "báo
hiếu" ông bà bằng những cú đấm thẳng mặt, những lời rủa sả... Đó là bi kịch của vợ chồng cụ Nguyễn
Văn Quý (84 tuổi) và cụ Nguyễn Thị
Chén (82 tuổi), ngụ thôn Đồng Lư, xã
Đồng Quang, huyện Quốc Oai, Hà Nội.
Tám năm bị con cái đẩy ra đường là tám
cái Tết buồn của cặp vợ chồng bất hạnh. Những đứa con “trời đánh” Tìm đến thôn Đồng Lư hỏi thăm vào
ngôi chùa có vợ chồng cụ già phải tá
túc, mọi người đều biết chính xác:
“Chắc cô chú tìm ông bà Quý hả? Tội
nghiệp ông bà ấy lắm cô chú ạ, hiền
lành, chịu thương chịu khó nhưng về già mất phúc. Con cái thì đông đúc, giàu
có mà có đứa nào chịu nuôi bố mẹ
đâu”. Rồi không kịp để khách hỏi thêm
câu nào, mọi người tranh nhau kể tội
mấy đứa con bất nhân của hai cụ: “Mấy
hôm trước chúng nó lại vừa hành hung bố mẹ”.
Cụ bà Nguyễn Thị Chén đang cầm chổi
quét sân chùa, tuổi già, mắt kém nên
lẩy bẩy lia từng nhát chổi chậm chạp,
cứ vài phút lại dừng tay đấm lưng. Trời
Hà Nội những ngày cuối năm lạnh đến dưới 10 độ C nhưng bà cụ cho biết ông
lão chồng mình từ sáng sớm đã ra
đồng mò cua bắt ốc. Nghe có người
muốn đến hỏi chuyện bi kịch của mình,
khóe mắt nhăn nheo của bà cụ trào
nước mắt: “e ông bà quen nhau
trong một lần đi làm thuê ở miền sơn
cước rồi nên duyên vợ chồng. Về sống
với nhau, ông bà lập nghiệp từ đôi bàn
tay trắng trong hoàn cảnh khó khăn
nghèo túng. Lúc vợ chồng ra ở riêng tài sản chỉ có duy nhất 20 cây tre để dựng
căn nhà làm nơi tá túc tránh mưa tránh
nắng. Ông bà lần lượt sinh hạ được bảy người
con, ba trai, bốn gái. Cuộc sống vốn dĩ
đã khó khăn, khi bảy đứa con lần lượt
chào đời thì cuộc sống càng túng quẫn
hơn. Để nuôi được bảy người con
thành người, ông bà đã phải chịu trăm ngàn cực nhục. Ông đi làm thuê làm
mướn hùng hục suốt ngày, còn bà thì
tối ngày cắm mặt trên mấy thửa ruộng
kiếm miếng cơm manh áo nuôi con.
Căn nhà nhỏ cũ nát đêm mưa không có
chỗ nằm, ông bà nhường cho các con chỗ khô ráo, còn mình thì chịu trận
giữa mưa gió. Bữa no bữa đói, nồi cơm
độn
sắn ngô không đủ cho đàn con đông
đúc, có bữa ông bà phải nhịn ăn
nhường con. Xã hội ngày càng càng phát triển, cuộc
sống rồi cũng bớt khó khăn. Rồi ông
bà dựng vợ gả chồng cho mấy đứa con
lớn, mấy đứa nhỏ thì do cuộc sống khó
khăn quá nên ông bà dắt lên vùng
kinh tế mới ở Tiến Xuân thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (nay là xã
Tiến Xuân, huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nội). Đến vùng kinh tế mới, do
chịu khó làm ăn nên cuộc sống gia
đình đã thoát khỏi cảnh túng quẫn. Lúc
này ông bà dựng vợ gả chồng nốt cho mấy đứa nhỏ. Tuy không bằng ai nhưng ông bà vẫn
cố gắng lo lắng cho con cái chu đáo, 3
người con trai thì cho mỗi anh một dinh
cơ khi lấy vợ, không để nợ một xu một
đồng cho đứa con nào. Khi người con
trai thứ ba của ông bà lấy vợ xây nhà, đứa con xui ông bà bán đất ở vùng
kinh tế mới để lấy tiền xây nhà cho
mình, ông bà cũng nghe theo vì cha mẹ
nào chẳng “cá cuối đắm đuối vì con”. Những bữa cơm chan nước mắt Bà cụ giơ tay gạt dòng nước mắt rồi
tiếp tục câu chuyện. Sau khi dồn hết
tiền làm nhà cho anh con trai thứ ba,
ông bà về ở với người con trai cả khi
trong tay ông bà không còn tiền.
Người con cả khi đó đã hậm hực hắt hủi ông bà với lý do: “Bao nhiêu tiền
cho thằng thứ ba hết, tôi không được
gì”, trong khi chính anh ta thừa hưởng
mảnh đất trước đó cha mẹ cho. Sống với người con cả, vợ chồng cụ
phải làm như người đi ở. Hàng ngày hai
cụ phải lấy bèo nuôi bảy con lợn, cày
cấy gặt hái, đi làm sớm về muộn mới
được miếng cơm để ăn. Đến mùa vụ, có
khi cụ bà đi gặt được mấy gánh lúa thì con dâu mới ra đồng. Cực nhục là vậy
nhưng với bản tính hiền lành chịu
thương chịu khó, ông bà cắn răng
không kêu nửa lời cho vừa lòng vợ
chồng con cả. Nhưng cũng chẳng được
bao lâu thì anh con cả tuyên bố thẳng thừng: “Ông bà cút khỏi nhà này, đi
đâu thì đi”. Vợ chồng cụ đành lẳng lặng ôm quần
áo tìm đến nhờ vả anh con trai thứ ba.
Những tưởng trước đây mình đã lo
lắng bán nhà đi lấy tiền cho nó xây nhà
thì con sẽ tốt với mình, thế nhưng trái
lại người con này cũng không kém phần tệ bạc với cha mẹ và tỏ rõ “quan
điểm”: “Ông cả không tử tế với ông bà
thì tôi việc gì phải tử tế?”. Ở đây, cảnh khổ không kém gì con cả
khi đã không những phải làm lụng vất
vả, họ còn năm lần bảy lượt bị con đuổi
đi. Nhục nhã nhất là những bữa cơm
chan nước mắt. Bữa ăn nào cũng vậy,
người con trai bắt bố mẹ phải cung kính mời… vợ chồng con cái mình ăn
cơm bằng câu: “Mời ông bà ăn cơm, mời
các cháu ăn cơm”. Có những người
làng xóm thấy vậy thì bực mình thay và
phẫn nộ: “Ông bà hiền quá để nó bắt
nạt, mình là bố mẹ đến bữa thì sao phải mời chúng nó”. Thử một lần “phạm
thượng”, tối đó hai cụ không mời thì bị
con trừng mắt nạt nộ: “À, cái nhà này
ăn cơm không ai mời ai à”. Sợ ông “trời
con”, ông bà run rẩy “trở về nếp cũ”:
“Mời ông bà…”. Nhẫn nhịn bao lâu những mong yên
thân nhưng “cây muốn lặng mà gió
chẳng dừng”, đến một hôm gã con trai
thứ ba giơ tay đấm vào mặt mẹ, vác dao
kề cổ bố xua đuổi: “Bước mẹ chúng
mày ra khỏi nhà, không tao cho nhát dao bây giờ” (Lời nguyên văn của cụ
Chén - PV). Thấy bố mẹ lủi thủi ôm mớ
quần áo rách bước đi, gã còn thẳng
thừng tuyên bố: “Còn quay về đây thìy
đập chết”. Vẫn còn một niềm hi vọng nữa là ngườiy
con trai thứ. Biết bố mẹ phải lang thang
ngoài đường, anh này đón ông bà lên
ở cùng nhưng cũng được vài hôm. Phải
sống trong cảnh những lời nói mócy
máy của cô con dâu ra rả trong nhà suốt cả ngày, ông bà cảm thấy sống
còn khổ hơn chết. Nước mắt lưng
tròng, không còn nơi nương tựa vợ
chồng cụ lang thang đây đó, đến khi
không còn chỗ nào nữa đành phải vào
ở nhờ nhà chùa. Tám mươi năm cuộc đời vất vả làm lụng, gia tài các cụ có
trong tay là bảy đứa con bất hiếu và bất
lực, sáu miếng ván dùng để đóng áo
quan khi chết cùng 3 bao tải đựng lá
khô dùng đun nấu. Người làng thấy
vậy liền thương tình người cho cái bát, người cho manh chiếu, người cho cái
giường cũ để các cụ dựng thành cái “tổ
ấm” cuối đời. Rơi lệ nghe những kỷ niệm buồn 3 người con trai thì vậy, những người
con gái cũng không “khá khẩm” gì
hơn. “Mấy đứa con gái thì một đứa lấy
chồng ở Xuân Mai, một đứa lấy ở trại Bà
Nhà, một đứa ở Cố Đụng (đều là những
địa điểm gần nơi ông bà đang ở nhờ - PV), còn đứa út thì lấy chồng ở làng
Đồng Lư này thôi”, bà lão nhẩm đếm. 3
đứa con gái của cụ theo lời kể của bà
lão tội nghiệp thì kinh tế đều khá giả,
chỉ có cô út lấy chồng ở làng thì nghèo
“rớt mồng tơi”. Chẳng biết giàu sang cỡ nào nhưng mấy đứa con gái hàng năm
không ngó ngàng tới bố mẹ, năm thì
mười họa mới mua cho ông bà mấy
viên thuốc, Tết nhất may ra cho được
túi kẹo cái bánh. Riêng cô con út cùng
làng thương cha mẹ già thì thỉnh thoảng ghé qua nhưng nghèo quá,
nuôi còn chưa nổi nói gì lo cho cha mẹ
già. Trở lại câu chuyện những người con
trai. “Sòng phẳng” mà nói thì lúc ra nhà
chùa ở, hai cụ vẫn chưa đến nỗi không
còn “miếng đất cắm dùi” vì vẫn còn một
sào ruộng để cấy lúa sinh nhai. Thế
nhưng tài sản cuối cùng này cũng bị đứa con trai cả tranh cướp. Đã mấy lần
cô út đi giúp bố mẹ già làm ruộng thì bị
vợ chồng anh cả vác cuốc đuổi đánh,
không cho làm hộ vì “đó là ruộng của
tao, mày đừng có động vào”, Chưa hết, mấy năm trước hai cụ đến
tuổi thượng thọ nên được hưởng
chính sách của Nhà nước, theo quy
định thì phải có sổ hộ khẩu, chính
quyền mới có thể làm giấy tờ chúc
mừng, làm chế độ. Vẫn đứng tên trong hộ khẩu gia đình con trai cả, ông bà lủi
thủi về van vỉ con cho mượn cái sổ hộ
khẩu để làm giấy tờ cũng bị đứa con từ
chối thẳng thừng. Khi người cha về van
vỉ: “Con cho bố mượn sổ hộ khẩu một
lát, bố chỉ mang đi photocopy rồi trả ngay” thì đứa con nại ra lý do “Sổ đang
ở nhà trưởng thôn”. Lóc cóc tìm đến
nhà trưởng thôn thì được biết rằng con
đã lừa mình, ông lão lại lộn trở lại nhịn
nhục xin mượn lần nữa thì con trai –
con dâu đùn đẩy nhau. Uất ức, người cha gạt nước mắt lủi thủi quay đi và thề
“không bao giờ bước chân đến đây
nữa”. Cũng có những lúc ông bà lão 80 này
được những đứa con “đối xử tử tế”
một cách bất thường. Đó là những lúc
chúng cần các cụ làm “con ở”. Thằng
con trai thứ ba của họ là một ví dụ, khi
vợ sinh nở thì người này tới đón vợ chồng cụ vào. Đã “cảnh giác” sau nhiều
lần bị lợi dụng nên cụ ông không đi vì
nghĩ “nó chỉ đạo đức giả”, riêng cụ bà
thương con thương cháu nên theo vào
chăm sóc, giặt giũ, làm lụng “phục vụ”
gia đình con. Lời ông cụ đã đúng khi đứa cháu đã cứng cáp, vợ chồng đứa
con lại đuổi bà đi: “Bà đi làm lấy mà ăn,
không được ở đây nữa”. Gần 10 năm
nay thấy ông bà lão chui rúc trong căn
lều rách, nhiều người hàng xóm
khuyên: “Hai cụ đi ở nhờ đình chùa làm gì cho khổ, về làm một túp lều ở góc
vườn nhà thằng con mà ở”. Phong
phanh nghe thấy, đứa con ngang
ngược nói bóng gió: “Về tao không
cho làm, tao “băm” chết”. Với những “kinh nghiệm xương máu”
từ những đứa con, bà cụ thành thật:
“Chẳng biết rồi khi chúng tôi chết
chúng có để ý đến bố mẹ không, hay
lại phải nhờ cậy đến chính quyền, đến
dân trong làng”. Những đứa con trai
chưa từng một lần đến xem túp lều
nơi
cha mẹ trú thân, chưa từng một lần
ngó
ngàng để ý bố mẹ còn sống hay chết.
Táng tận lương tâm hơn, chúng còn
cấm tiệt các con không được chào
hỏi,
không được ra chơi với ông bà.
Những đứa con dâu “rách giời rơi
xuống” thì
đã đành, nhưng những đứa cháu có
lẽ
đã được bố mẹ “huấn luyện” nên có
gặp ông bà hay cô út ngoài đường
chúng cũng “bơ” đi như người dưng
nước lã. Chúng tôi hỏi tại sao hai cụ
không nhờ
chính quyền địa phương can thiệp sự
việc, ít nhất nếu con cái không nuôi
cha
mẹ thì cũng phải trả các cụ mảnh
ruộng
cho các cụ kiếm gạo chứ? Cụ bà
nghẹn
ngào: “Chính quyền cũng không làm
gì được mấy thằng con tôi. Ở đây
chúng nó chửi nhau hết với họ hàng rồi đến
hàng xóm, sống một mình mà không
chơi với ai cả”. Chị út khi đó vừa đến
thăm mẹ cũng gục đầu nức nở:
“Trước
kia khi anh tôi kề dao vào cổ bố dọa
chém, chính quyền và dân quân có
đến
bắt anh ta viết giấy cam đoan không
được hành hung bố mẹ nữa nhưng
chỉ
hôm trước hôm sau lại đâu vào đấy.
Tôi
thì cũng đau lòng lắm nhưng “lực bất
tòng tâm” các anh chị ạ, muốn nuôi
bố mẹ mà sức không nổi vì nghèo, lại
lấy
chồng nên phải lo nhà chồng”. Sống
khổ hơn chết Góc nhà nơi ông bà lão
“trời đày” này
trú ngụ rộng khoảng dăm m2, chiếc
giường xin được ở đâu nên hai chân
còn, hai chân phải lấy gạch kê lên.
Người già đã khó ngủ, đêm mùa đông
càng khó ngủ hơn khi gió cứ len lỏi
qua cửa sổ thốc vào nhà dù hai cụ đã
cẩn thận nhét đầy ni long, giẻ rách
vào
các khe hở. “Nghĩ cực lắm, chúng tôi

làm gì nên tội đâu mà lại bị đày đọa
thế
này. Nhưng vợ chồng tôi cũng kiên
gan lắm đấy, nhiều khi cũng muốn
phát điên hay cắn lưỡi mà chết,
nhưng
bây giờ mà chết thì chính quyền với
làng xóm lại khổ nên sống được ngày
nào cứ cố sống. Đêm nào cũng nước
mắt chảy xuôi, cụ Chén nói. Đọc đến
đây, nhiều người sẽ thắc mắc
ông bà lão sinh sống bằng gì. Bà cụ
cho biết ngoài việc ông lão ngày ngày
đi mò cua bắt ốc, người trong làng
còn
mỗi người giúp một chút, hôm thì cho
lon gạo, hôm thì cho ít muối, mà
người già ăn ít, chẳng có nhu cầu
mua sắm gì
nên ông bà vẫn cầm cự được. “Năm
nay là cái Tết thứ tám vợ chồng tôi ở
đây rồi, Tết nhất chẳng có gì, cứ nhìn
nhà người ta con cái sum vầy thì mình
lại khóc. Mình có đến bảy đứa con,
hàng chục đứa cháu mà lại khốn khổ
khốn nạn nhất cái làng này”, cụ Chén
khóc. Rồi cụ bà ngóng ra ngoài xem
cụ ông
đã về đi mò cua bắt ốc về chưa, chép
miệng thương chồng: “Khổ thân ông
ấy, tôi thì ốm đau nên mọi việc đều
phải
ông ấy làm. Sáng nay tôi bảo trời vẫn
rét lắm, đừng đi ra đồng lặn lội nữa
mà ông ấy vẫn gạt đi, bảo là Tết đến
nơi rồi
phải kiếm mớ ốc con tép bán kiếm
tiền
mua nén nhang cúng tổ tiên. Trời rét
thế này tôm tép cũng trốn sạch, có
khi
mình còn chết rét ấy chứ”. Cụ bà kể lại
cụ ông ngày may mắn thì cũng kiếm
được vài con ốc bán lấy dăm ngàn, có
ngày đi từ sáng đến tối mới về mà tay
không vì “tay đưa thìa cháo lên miệng
còn run, mắt kèm nhèm thì làm sao
bắt
được tôm tép. Có ngày bắt được nửa
giỏ ốc về nhưng đổ ra tôi mới thấy
quá nửa toàn là… vỏ ốc. Những ngày
không có gì ăn hay gần hết cái ăn, hai
cụ phải nấu cháo húp dằn lòng, hoặc
cố đi nhặt nhạnh rau dại ăn trừ bữa.
Chùa cũng không có nước, hàng ngày
cụ ông lọc cọc kéo xe bò từ giếng
làng về để dùng sinh hoạt. Ấy là mấy
hôm trước ông lão vừa đi
viện về, vậy mà vừa xuất viện hôm
trước hôm sau lại đã lọ mọ ra đồng
tìm
cái ăn. Nhắc đến chuyện này, bà cụ lại
rưng rưng nước mắt nhớ “bạn”. “Bạn”
của bà là một con chó gầy giơ xương,
tám năm nay lủi thủi quanh quẩn
cùng
ông bà, lúc ông đi kiếm ăn thì bầu
bạn
với bà, cho bà vỗ về. Vậy nhưng hôm
ông lão ốm, nhà làm gì có đồng nào
xu
nào nên bà chạy nháo nhác khắp
làng
hết vay rồi xin cũng chỉ được vài chục
ngàn. Bà lão đành gọi lái chó đến bán
“bạn” mình đi. Bà vỗ về “bạn” trước
khi
người lái chó thòng dây vào cổ con
chó
ốm: “mày thông cảm, hoặc là chồng
tao
chết, hoặc là mày chết. Thôi “mày” đi
thay ông ấy”. Không rõ con chó lẽ
cũng hiểu tình cảm của bà lão, hay vì
đói quá
nên chẳng còn sức ăng ẳng kêu như
những con chó khác khi bị bán, chỉ
mắt
long lanh nước nhìn bà chủ ngoảnh
mặt đi. Trong cuộc đời này không nỗi
buồn
nào buồn bằng nỗi buồn con bất
hiếu
– cha mẹ bị hắt hủi. Ai cũng có mẹ có
cha nên chạnh lòng trước thảm cảnh
của hai cụ, chúng tôi cũng muốn
khóc
nhưng phải cố dằn lòng vì khóc
không giúp được gì cho hai cuộc đời
khổ sở
cùng cực này, chỉ mong thông qua
mặt
báo chuyển tải đến hàng triệu bạn
đọc
trên cả nước lời khẩn cầu có một sự
đóng góp nhỏ giúp đỡ hai cuộc đời
này. Lẩn thẩn nghĩ lại thấy hai cụ ngày
xưa đã nghèo, nay còn nghèo hơn
nữa: 60 năm trước khi lấy nhau các cụ
còn có mơ ước về những đứa con là
“của để dành” và 20 cây tre làm nhà;
nay cuối đời các cụ còn gì ngoài sự
thất
vọng về đạo lý làm người và 6 miếng
gỗ mới chỉ đủ làm một chiếc áo quan,
lại
động chạm đến nỗi áy náy của bà cụ:
“Hai người chết chung thì còn chôn
một
hòm được, nếu không chết cùng
nhau
thì chẳng lẽ một người lại… bó
chiếu?”

Trở về
Bình luận

Gửi bình luận

*
backTrở lạiup
Coppyright by:© 2012.Yoona™
U-ON
DUA TOP WAP VIETTOP WAP WORLDWIDE